Thưa quý độc giả thân mến!
Quán Thế Âm Bồ Tát - Ngài đã giác ngộ, biết rõ chân lý của vũ trụ, chứng được phép “nhĩ căn viên thông”, nghe thông suốt hết thảy âm thanh của vũ trụ, như người đã thức dậy rồi trong ngôi nhà “vũ trụ” kia, nghe biết hết thảy chân tướng các sự vật, động tịnh trong ngoài.
giữ được tâm thanh tĩnh trong những hoàn cảnh khác nhau là điều khó vì là con người chúng ta ai cũng có tham, sân, si, mạn, nghi...gặp trong hoàn cảnh đau buồn ai mà chẳng khóc thương tiếc và khi vui có người thân bạn bè ở bên thì sự cộng hưởng của tiếng cười làm ta càng vui hơn. trong phật giáo có câu phật đi tới đâu ma đi tới đó - một niệm thấy phật một niệm cũng có thể thấy ma. ý nghĩa của câu nói trên ở chỗ ma và phật giường như luôn có khoảng cách mong manh như ngày và đêm như là căn lành và căn ác chỉ là phật đã giác ngộ chánh đẳng chánh giác, khi mà phật thích ca chứng đạo ở cây bồ đề thì lũ ma lũ lượt kéo đến nhưng không thể làm gì được, còn đức phật là người từ bi hỉ xả luôn bao dung và chứa đựng muôn loài có chăng sự hiện diện của lũ mà đòi giết ngài cũng là có ý nghĩa của tạo hóa nên ngài không đấu tranh lại và cho rằng nếu như một loài ma quái nào đó có thể làm hại ngại thì cũng là cái túc nghiệp mà ngài phải trả nợ đã gây ra ở trong vô lượng kiếp trước. Chúng ta có thể học được từ câu chuyện này đó là sự vô thường khi đối diện với chuyện buồn hay vui đặc biệt nếu anh chị nào có gặp chuyện buồn, làm tâm sân hận, tâm buồn đau... thì chúng ta nên hướng tới phật khởi niệm căn lành khi gặp đường cùng bạn một lòng hướng phật giữ niệm bất định không thối thất khi đó căn ác sẽ lùi thì chẳng dẫn dụ ma quái nào đến quấy nhiễu tâm trí mà ngược lại các chư thiên sẽ hộ trì bạn. Tôi muốn viết bài này như là bài thuốc chữa tâm cho ai hữu duyên đọc được, và lưu nhớ lại hình ảnh của các vị phật và bồ tát trong tâm trí.
ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT
Đại Thế Chí Bồ Tát còn có những tên gọi khác như là Đắc Đại Thế Bồ tát, Đại Tinh Tấn Bồ tát, Vô Lượng Quang Bồ tát, Linh Cát Bồ tát,…hoặc cũng có thể gọi vắn tắt là Thế Chí.
Trong Tây Phương Tam Thánh, ngài là vị Bồ Tát đứng bên phải của đức Phật A Di Đà, cổ đeo chuỗi anh lạc và tay thì cầm hoa sen xanh. Trong đó hoa sen xanh tượng trưng cho thanh tịnh. Dùng trí tuệ để dứt khỏi những phiền não vô minh và cứu vớt chúng sinh lên khỏi vũng bùn ác trược.Đại Thế Chí Bồ Tát là đại diện của trí tuệ, ngài dùng ánh sáng trí tuệ phổ chiếu hết thảy, giúp mọi chúng sinh rời xa cõi ác. Và khi ngài di chuyển, thế giới thập phương như trải qua cơn địa chấn cho nên được gọi là Đại Thế Chí.
Ngài đứng bên tay phải cùng với đức Quán Thế Âm trở thành thị giả của đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc. Cả ba vị tạo thành Tây Phương Tam Thánh mà chúng ta vẫn kính thờ mỗi ngày. Quán Thế Âm thì tượng trưng cho từ bi, còn Đại Thế Chí thì tượng trưng cho trí tuệ. Để trở thành Phật, nhất định phải có hai yếu tố này, từ bi và trí tuệ. Còn trong phong thủy thì ngài Đại Thế Chí Bồ Tát được xem là bản mệnh của người tuổi Ngọ. Thờ tượng Ngài giúp người tuổi Ngọ gặp hung hóa cát, muôn sự bình an, cát tường như ý, phát huy được những trí tuệ của bản thân.
ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
Ngài xuất gia vào năm 24 tuổi, dẫn theo một con chó trắng tên là Thiện Thính, đi khắp chốn tìm nơi thanh tịnh để tu. Đi mãi rồi Ngài cũng chọn được núi Cửu Hoa và thiền định tại đó trong 75 năm. Ngài viên tịch ở tuổi 99, nhưng nhục thân vẫn nguyên vẹn 3 năm sau đó. Các đệ tử của Ngài đã đem nhục thân ngài đến bảo tháp trên ngọn Thần Quang Lãnh để thờ cúng.
Tóm lại, Địa Tạng Vương bồ tát là vị bồ tát cứu độ chúng sinh và bảo vệ trẻ em. Tương truyền rằng, những đứa trẻ yểu mệnh bởi vì còn vấn vương cha mẹ người thân nên quanh quẩn bên sông, không chịu bước qua cầu Nại Hà để đầu thai. Lúc này Đức Địa Tạng sẽ xuất hiện, an ủi, giảng giải và giúp đỡ các em bé tạo công đức qua sông.
Tượng Địa Tạng Vương bồ tát, tay trái cầm như ý châu, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian. Sứ mệnh của Ngài - Địa Tạng Vương bồ tát là để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục.
Bên cạnh ý nghĩa vĩ đại cứu độ hết thảy chúng sanh trong lục giới, tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát còn mang ý nghĩa sâu xa. Đó chính là biểu tượng cho tâm địa của mỗi chúng ta. Địa có nghĩa là mặt đất, Tạng có nghĩa là dung chứa. Mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi vật, thì tâm con người cũng vậy, dung chứa cả cái thiện và cái ác. Bồ Tát Địa Tạng nguyện cứu độ mọi chúng sinh trong địa ngục mới thành Phật, cũng như người tu hành nguyện chuyển hóa tất cả những hạt giống xấu ác trong tâm thành điều thiện, như vậy cũng đã là thành Phật.
Kinh Phật có dạy rằng: “dốc lòng niệm tụng Bồ Tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích. Trời rồng hộ niệm, quả lành ngày thêm lớn, chứa góp nhân vô lượng. Không lui sụt đạo giác ngộ, áo cơm đầy đủ, không bị bệnh dịch, khỏi nạn lửa nước. Không có giặc hại, người thấy cung kính, quỷ thần hộ trì…”
ĐỨC ÔNG LÀ AI?
Đức Ông được tạc tượng và thờ tự trong tất cả các chùa viện Phật giáo ở Việt Nam, thường được Phật tử và tín chủ cầu xin chuyện công danh, tiền bạc, con cái, v.v... Vậy Đức Ông là ai? Đức Ông sống cùng thời với Đức Phật lịch sử của chúng ta, hiệu là Cấp Cô Độc (Anathapindika), tức là chu cấp cho hết thảy những người cô đơn, nghèo khổ, bệnh tật... Về góc độ lịch sử, Ngài là vị thí chủ lớn nhất thời bấy giờ đối với Đức Phật và Tăng đoàn. Ngài từng phủ khắp khu vườn của Thái tử Kì Đà bằng vàng để ông đồng ý nhượng lại nơi đó làm chốn tịnh tu cho Phật và Tăng đoàn. Đối với Phật Pháp, Ngài có công lớn hộ pháp và truyền bá chính pháp. Về góc độ thần thông, Ngài có công năng thấy hết mọi kho tàng, tài bảo trên thế gian, không cầu cũng có, phong túc không ai bằng. Tài bảo đó cúng dường Tam Bảo, bố thí cho kẻ cùng khốn, nên ở Ngài đầy đủ hạnh Phổ Hiền, đức Từ Bi. Đức Ông là nhân vật có công lớn với Phật Pháp, ở hàng cư sĩ mà hộ trì chính pháp, trọn vẹn hạnh Từ, Bi, Hỉ, Xả, tế độ quần manh. Do đó, ban Đức Ông luôn được đặt bên tay trái của ban Tam Bảo (tay phải là ban Thánh Hiền), chủ ý rằng hoằng pháp là tu sĩ, hộ pháp là hàng cư sĩ tại gia. Khi vào lễ chính điện, ta cũng vào từ cửa tay trái, tới ban Đức Ông lễ trước để bẩm báo vì Ngài có công xây chùa, tạc tượng. Nếu người quá túng thiếu (tiền bạc, tình cảm, con cái, v.v...) cũng có thể tới cửa Đức Ông kêu cầu. Với hạnh Từ Bi, Ngài sẽ tùy duyên toại nguyện cho chúng sinh.
ĐỨC THÁNH HIỀN
Thánh Hiền chính là Tôn giả Anan (hay Ananda). Thầy vốn là em chú họ của Đức Phật. Khi thầy xin Phật cho xuất gia, thầy cũng đặt điều kiện với Phật phải tuyên lại một lần nữa tất cả pháp mà Phật đã nói khi thầy chưa gia nhập Tăng đoàn. Khi đại chúng đề cử thầy làm thị giả (trợ lý) cho Phật thì thầy cũng đưa ra 8 điều kiện thể hiện thái độ hết sức khiêm nhường, trong đó có "Xin Đức Tôn Sư hãy lặp lại những giáo ngôn, những pháp thoại trong trường hợp tôi không có mặt tại chỗ để nghe".
Tôn giả có trí nhớ phi phàm. Thầy có thể ghi nhớ toàn vẹn những gì Phật thuyết, không bỏ sót dù chỉ một từ. Vì thế, khi Phật nhập Niết-bàn, đại chúng suy cử thầy làm người trùng tuyên (nói lại) những điều Phật đã dạy để hội tập (biên tập) thành kinh [để truyền miệng (vì thời đó chưa có giấy)]. Tuy nhiên Trưởng lão Ca-diếp không đồng ý vì Tôn giả Anan bấy giờ mới chứng quả đầu tiên trong 4 Thánh quả là Tu-đà-hoàn (Nhập vào dòng Thánh), trong khi đó đại chúng 500 người kết tập kinh điển đều đã chứng quả thứ 4 là A-la-hán (Vô Sinh). Tôn giả Anan biết được Huynh Trưởng không có phép mình tham gia kết tập thì hết sức buồn bã, tự trách mình, và quyết định nhập thất thiền định. Ngày thứ 7 sau khi nhập thất, Tôn giả hoát nhiên đại ngộ, vượt chứng lên bậc La-hán. Biết được điều đó, Trưởng lão Ca-diếp quyết định mời Hiền giả Anan lên tòa trùng tuyên Pháp Phật. 500 vị La-hán ngồi dưới dự thính. Nếu thầy Anan nói 1 lời nào không như Pháp Phật nói thì các vị khán thính lập tức phản đối ngay. Vì thế, Tôn giả Anan thuyết lại kinh Phật với sự đồng thuận của tất cả 500 vị La-hán. Đồng thời thầy cũng là người hiếu học, học rộng bậc nhất (đa văn). Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói rằng xưa kia Ngài và Tôn giả cùng tu, Ngài vì chuyên cần tu học nên nay đã chứng thành Phật quả, còn thầy Anan đa văn nên giờ vẫn còn ở bậc hữu học (còn phải học tiếp). Đây là khai thị hết sức quan trọng của Đức Phật. Chuyên cần tu hành (sửa đổi) mới là cửa ngõ chứng đạo. Học rộng, biết nhiều chưa phải là cứu cánh (chỗ rốt ráo). Tôn giả vì chú trọng việc học (từ Học nghĩa là bắt chước) nhiều nhưng lại xem nhẹ việc tu thiền (Thiền tức là định, nghĩa là tâm không bị ngoại cảnh xoay chuyển khi chúng thay đổi), cho nên khi nhận lời thí chủ thỉnh mời thọ trai riêng lẻ thì thầy đã không tự chủ được mình trước dâm thuật của nữ Ma-đăng-già (Ma-đăng-già nghĩa là hạ tiện, ô uế) [thầy Anan rất đẹp trai, lại nói năng ôn tồn, nhu hòa, thường chiếu cố tới những người bần khổ], suýt đánh mất giới thể. May nhờ thần lực của Phật cùng chú Thủ Lăng Nghiêm mà thầy mới được toàn vẹn trở về giáo hội. Trong nhiều pháp hội, thầy thường tự trách lỗi mình vì đa văn mà chểnh mảng việc tu tâm, vì ỷ y vào quan hệ huyết thống thân thuộc với Phật mà cho rằng không cần thật hành cũng được nương phước lực của Phật mà giải thoát. Chính vì thầy mà Phật thuyết chú Lăng Nghiêm cùng kinh Lăng Nghiêm, là kinh có vai trò rất quan trọng trong Kinh Tạng. Tuy nhiên, trong kinh Vô Lượng Thọ, khi thấy Phật phóng quang minh chưa từng có, Tôn giả biết thời cơ đã đến, liền đứng ra thưa hỏi: "Đức Thế Tôn đang nhớ chư Phật quá khứ, chư Phật hiện tại, hay chư Phật tương lai?". Thầy Anan hỏi được điều vi diệu như thế chứng tỏ thầy chẳng phải người bình thường, chẳng phải chỉ là bậc Sơ Quả. Thực ra Tôn giả là bậc Pháp Thân Đại Sĩ thừa nguyện tái lai để hộ Phật tuyên Pháp. Sau khi kết tập kinh điển, Tôn giả kế thừa Sơ Tổ Ca-diếp làm vị Tổ thứ hai của Thiền Tông. Ngài trụ thế 120 năm, thị tịch giữa sông Hằng. Vì công đức kết tập kinh điển (khải giáo) và duy trì mạng mạch Thiền Tông, Ngài được cung kính thờ tự tại ban Thánh Hiền tại hầu hết các chùa ở miền Bắc. Ngoài ra ban Thánh Hiền còn đại diện cho chư Tăng, biểu hiện cho nghiêm trì giới luật và hoằng pháp. Ban Đức Ông đại biểu cho cư sỹ nghiêm trì năm giới tại gia và hộ pháp. Hoằng hộ tương sinh tương đồng. Một số người cho rằng Thánh Hiền là chỉ Đại Sư Huyền Trang đời Đường vì Ngài có công thỉnh và dịch kinh. Điều này có căn cứ. Hành trạng của hai vị thầy khá giống nhau. Cho nên có người cho rằng Đại Sư Huyền Trang cũng như Sư Huyền Quang (Đệ Tam Tổ Trúc Lâm Việt Nam) là hóa thân của Tôn giả, xét ra là khả dĩ.
PHẬT A DI ĐÀ
Theo Đại Kinh A-di-đà hay Đại Kinh Sukhāvatīvyūha, trong một kiếp sống trước đây A-di-đà là một vị tăng tên là Pháp-tạng hay Dharmākara.Ông nguyện khi sẽ tịnh hoá và trang nghiêm một thế giới và biến nó thành một trong những Phật độ thanh tịnh và đẹp đẽ nhất. Một khi ông hoàn toàn tỉnh giác và hoàn thành lời nguyện của mình, Dharmākara sẽ trở thành Phật A-di-đà.
Phật A Di Đà trên đầu có các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ, khoác trên người áo cà sa màu đỏ. Phật A Di Đà có thể trong tư thế đứng, tay làm ấn giáo hóa – tức là tay mặt đưa ngang vai, chỉ lên, tay trái đưa ngang bụng, chỉ xuống, hai lòng bàn tay hướng về phía trước; trong mỗi tay, ngón trỏ và ngón cái chạm nhau làm thành vòng tròn.
Đức Phật A Di Đà là đức Phật làm giáo chủ cõi Tây phương Cực Lạc. Tên Ngài có 3 nghĩa:
- Vô lượng quang có nghĩa là hào quang trí tuệ của Ngài chiếu khắp các thế-giới.
- Vô lượng thọ có nghĩa là thọ mạng của Ngài sống lâu không lường kể.
- Vô lượng công đức có nghĩa Đức Phật A Di Đà làm những công đức không ai kể xiết.
Theo kinh Đại A Di Đà, về thời Đức Phật Thế Tự Tại Vương ra đời, có một vị quốc vương tên Kiều Thi Ca. Vua Kiều Thi Ca nghe đức Phật thuyết Pháp liền bỏ ngôi vua xuất gia làm vị tỳ kheo hiệu là Pháp Tạng. Một hôm Ngài đảnh lễ Phật, cầu Phật chứng minh và phát 48 lời nguyện, và do nguyện lực ấy sau này thành đức Phật A Di Đà. Lại theo kinh Bi Hoa, về đời vua Chuyển Luân Thánh Vương tên Vô Tránh Niệm có vị đại thần tên là Bảo Hải, tức là thân phụ của Phật Bảo Tạng. Một hôm vua Vô Tránh Niệm nghe Phật thuyết Pháp liền phát tâm cúng dường đầy đủ các lễ vật cho đức Phật và Đại chúng trong ba tháng. Vị Đại thần Bảo Hải khuyên vua nên phát tâm Bồ đề cầu đạo vô thượng. Vua liền nguyện nếu sau này thành Phật sẽ làm giáo chủ cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh để giáo hóa chúng sanh. Vua Vô Tránh Niệm vừa phát nguyện xong, đức Bảo Tạng Như Lai liền thọ ký cho vua sau này thành Phật sẽ lấy hiệu là A Di Đà và ở cõi Tây Phương Cực Lạc. Vị Đại Thần Bảo-Hải sau này cũng thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Đức Phật A Di Đà là gương sáng của hạnh Thanh Tịnh, vì thân Ngài chói ngời hào quang thanh tịnh và sáng suốt. Đức Phật A Di Đà có phát 48 lời nguyện rộng lớn cứu độ tất cả chúng sanh, trong ấy có lời nguyện tiếp dẫn tất cả chúng sanh nào hướng niệm đến Ngài đều được vãng sanh lên cõi Cực Lạc.Ở Việt Nam, phần đông tu theo tông Tịnh Độ nên thờ tượng Đức Phật A Di Đà. Tượng Ngài đứng hoặc ngồi trên tòa sen, tay phải duỗi xuống phóng hào quang, tay trái để ngang bụng bắt ấn cam lồ. Tại các chùa, thờ chung với Đức Phật A Di Đà gồm có đức Đại Thế Chí Bồ Tát bên tay phải và đức Quán Thế Âm Bồ Tát bên trái. Hai vị này trợ hóa cho Ngài bên cảnh giới Cực Lạc. Thường năm đến ngày 17 tháng 11, các phật tử làm lễ vía của Ngài. Người ta thường niệm danh hiệu Ngài khi gần lâm chung để được về cảnh giới Cực Lạc.
PHỔ HIỀN BỒ TÁT
Bồ tát Phổ Hiền được xem là một trong tứ đại Bồ tát của Phật giáo. Ngài và Bồ tát Văn Thù là thị giả của Phật Thích Ca Mâu Ni. Bồ tát Văn Thù cưỡi sư tử đứng thị giả ở bên trái và Bồ tát Phổ Hiền cưỡi voi trắng đứng thị giả ở bên phải.
Nếu như Bồ tát Văn Thù đại biểu cho trí, tuệ, chứng, nắm giữ trí tuệ và chứng đức của chư Phật. Bồ tát Phổ Hiền đại biểu cho lý, định, hạnh, nắm giữ lý đức, định đức và hạnh đức của chư Phật. Các ngài cũng diễn giải sự hoàn bị viên mãn của lý trí, định tuệ và hạnh chứng của Như Lai. Cả hai vị bản tôn cùng với Phật Tỳ Lô Giá Na được gọi là Hoa Nghiêm Tam Thánh. Mật Tông xưng tụng Bồ tát Phổ Hiền là Thiện Nhiếp Kim Cương, Chân Như Kim Cương, Như Ý Kim Cương. Ngài còn được xem là đồng thể với Kim Cương Tát Đỏa. Khi Đức Phổ Hiền chưa xuất gia học đạo, Ngài làm con thứ tư của vua Vô Tránh Niệm, tên là Năng-đà-nô. Danh hiệu Phổ Hiền xuất hiện trước tiên trong kinh Mạn Ðà La Bồ Tát, về sau xuất hiện ở nhiều kinh khác như kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa nên trở thành phổ biến.
Phổ Hiền Bồ Tát tượng trưng cho Lý, Ðịnh, Hành; cỡi voi trắng 6 ngà, hầu bên tay phải của đức Như Lai. Voi trắng tượng trưng cho trí tuệ vượt chướng ngại, 6 ngà tượng trưng cho sự chiến thắng sáu căn (6 giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, phẩm thứ 28 – Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát – ngài Phổ Hiền có nguyện với Phật về 500 năm sau có ai thọ trì Kinh Pháp Hoa, ngài sẽ cỡi voi trắng đến hộ trì, không cho ma, quỷ đến não hại. Ngài dạy rằng nếu chúng sinh nào nghe danh hiệu ngài; thấy và chạm đến thân ngài; hay nằm mộng thấy ngài; hoặc tưởng niệm đến ngài trong một ngày đêm hay nhiều hơn thì không còn thối chuyển. Chúng sinh nào nghe thấy thân ngài thanh tịnh thì tất được sinh trong thân thanh tịnh.
Tại Việt Nam, hằng năm tín đồ Phật Giáo cử hành lễ vía ngài đản sanh vào ngày 21 tháng hai âm lịch và lễ vía ngài thành đạo vào ngày 23 tháng tư âm lịch.
Sự tích về Bồ tát Phổ Hiền
Khi chưa xuất gia học đạo, đức Phổ Hiền còn làm con thứ tư của vua Vô Tránh Niệm, tên là Năng-đà-nô. Nhờ phụ vương khuyên bảo nên Thái Tử mới phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và chúng sanh trong 3 tháng. Lúc ấy có quan đại thần Bảo Hải thấy vậy, khuyên rằng: “Nay Điện Hạ có lòng làm được việc công đức rất tốt như thế, xin hãy hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ Đề mà cầu được thành Phật, hơn là cầu sự phước báu hữu lậu nơi cõi Nhơn, Thiên, vì cõi ấy còn ở trong vòng sinh tử”. Thái tử Năng-đà-nô nghe quan đại thần khuyên bảo như vậy, liền bạch với Phật Bảo Tạng rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi có món công đức cúng dường Ngài và đại chúng trong 3 tháng, xin hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Giác, nguyện phát tâm Bồ Đề, tu hạnh Bồ Tát mà giáo hóa mọi loài chúng sanh được thành Phật đạo; và nguyện được cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm, bao nhiêu những sự tốt đẹp và sự giáo hóa chúng sanh đều y như thế giới của Đức Phổ Hiền Như Lai vậy”. Đức Bảo Tạng Như Lai nghe Năng-đà-nô thái tử phát nguyện như vậy liền thọ ký rằng: “Hay thay! Hay thay! Ngươi phát thệ nguyện rộng lớn, muốn độ hết thảy chúng sanh đều thành Phật đạo. Trong khi tu Bồ Tát đạo, dùng trí kim cang mà phá nát các núi phiền não của mọi loài chúng sanh, vì vậy nên ta đặt hiệu ngươi là Kim Cang Trí Huệ Quang Minh Công Đức, trãi hằng sa kiếp làm nhiều công việc Phật sự rất lớn, rồi đến thế giới Bất Huyền ở phương Đông mà thành Phật, hiệu là Phổ Hiền Như Lai, chừng đó những sự tốt đẹp trang nghiêm của ngươi đã cầu nguyện thảy đều như ý”. Khi đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký rồi, tự nhiên giữa hư không có nhiều vị Thiên Tử ở các cõi Trời đem đủ thứ bông thơm đẹp đến mà cúng dường và đồng thinh khen ngợi.
Thái tử Năng-đà-nô thưa với Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu những sự ao ước của tôi ngày sau quả nhiên được như lời Ngài thọ ký, nay tôi kính lễ Ngài và Chư Phật mà xin làm sao hằng sa thế giới có đủ món hương rất tốt, rất thơm, mùi bay khắp trong các cõi; và mọi chúng sanh, hoặc ở trong địa ngục, ngạ quỷ cùng súc sanh, cho đến các người ở cõi Thiên Thượng nhân gian đương mắc phải nghiệp báo gì, nếu ngửi được món hương thơm ấy, tức thì đều được thoát khổ và lại hưởng sự an vui”. Thái tử Năng-đà-nô thưa rồi đang cúi đầu mà lễ Phật, thì trong các thế giới mười phương tự nhiên có mùi hương thơm bay khắp cả. Lúc đó mọi loài chúng sanh ngửi được mùi hương ấy, lòng dạ hớn hở, các phiền não thảy đều tiêu trừ. Năng-đà-nô thái tử nhờ Phật thọ ký như vậy, thân tâm vui mừng, bèn đảnh lễ Phật, rồi ngồi xuống nghe Ngài thuyết pháp.
Thái tử Năng-đà-nô nhờ công đức đó nên sau khi mạng chung, sanh ra các thân khác và các đời khác, kiếp nào cũng nhớ lời thệ nguyện mà chăm làm Phật sự và hóa độ chúng sanh, để cầu cho mau chóng viên mãn những gì mình đã ao ước, phát nguyện. Bởi ngài có lòng tu hành tinh tấn như vậy nên đã thành Phật ở cõi Bất Huyền và nay hóa thân vô số ở trong các thế giới mà giáo hóa chúng sanh.
Ý nghĩa danh hiệu:
Phổ Hiền dịch âm là Tam-mạn-đà Bạt-đà-la, hoặc Tam-mạn-đà Bạt-đà (Samntabhadra). Phổ là biến khắp, Hiền là Đẳng Giác Bồ-tát, Phổ Hiền là vị Bồ Tát Đẳng Giác có năng lực hiện thân khắp mười phương pháp giới, tùy mong cầu của chúng sanh mà hiện thân hóa độ. Ngài là một trong những vị Bồ Tát quan trọng theo Phật Giáo Đại Thừa. Theo kinh Pháp Hoa, ngài là vị Bồ Tát ở quốc độ của Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương Như Lai, phía Đông cõi Ta Bà, nghe thế giới này thuyết kinh Pháp Hoa liền lãnh đạo 500 vị Đại Bồ Tát đến nghe pháp và phát tâm hộ trì chánh pháp của Đức Phật Thích Ca. Phổ Hiền Bồ Tát được xem là người hộ vệ của những ai tuyên giảng đạo pháp và đại diện cho “Bình đẳng tính trí” tức là trí huệ thấu hiểu cái nhất thể của sự đồng nhất và khác biệt.
Biểu tượng – Pháp khí – Thờ phụng Samntabhadra (Tam-mạn-đà Bạt-đà-la) biểu thị từ tâm và Phật pháp. Ngài thường sánh cùng với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và cả hai vị được coi là những cao đồ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni – từng là đệ tử trong các tiền thân Phật Thích Ca – Ngài là vị đầu tiên trong Ngũ Thiền Bồ Tát, tương ứng với Ngũ Thiền Phật của Bắc Tông. Trụ xứ của Ngài về hướng Đông. Bồ Tát Phổ Hiền thường được thờ cùng với Phật Thích Ca (Sakya) và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī). Bồ Tát cỡi voi trắng 6 ngà; voi trắng tượng trưng trí huệ vượt chướng ngại, 6 ngà tượng trưng cho sự chiến thắng 6 giác quan.
Kinh Mười Nguyện Phổ Hiền - Thiền Sư Nhất Hạnh:
Con xin đem ba nghiệp thanh tịnh
Kính lạy tất cả hằng sa Bụt
Trong các thế giới khắp mười phương
Quá khứ, vị lai và hiện tại.
Thần lực của hạnh nguyện Phổ Hiền
Giúp con có mặt khắp mọi nơi
Nơi đâu có Bụt là có con Bụt là vô lượng, con vô lượng.
Trong hạt bụi có vô số Bụt
Mỗi vị an trú chúng hội mình
Đức tin của con vẫn tràn đầy
Trong mọi hạt bụi của pháp giới.
Con đang sử dụng biển âm thanh.
PHẬT DI LĂC
Theo kinh điển Phật giáo, Di Lặc là vị Bồ tát sẽ xuất hiện trên trái đất, đạt được giác ngộ hoàn toàn, giảng dạy Phật Pháp, giáo hóa chúng sinh, và chứng ngộ thành Phật. Phật Di Lặc sẽ là vị Phật kế thừa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Cõi giáo hóa của Bồ tát hiện nay là trời Đâu suất (sa. tuita). Bồ tát Di Lặc được tiên tri sẽ giáng sinh trong kiếp giảm của tiểu kiếp kế tiếp, khi nhân thọ là 80.000 năm, tức khoảng 9 triệu năm nữa theo năm trái đất, khi Phật pháp đã bị lãng quên trên cõi Diêm phù đề. Sự tích về Phật Di Lặc được tìm thấy trong các tài liệu kinh điển của tất cả các tông phái Phật giáo (Nguyên thủy, Đại thừa, Kim cương thừa), và được chấp nhận bởi hầu hết các Phật tử như là một sự kiện sẽ diễn ra khi Phật pháp đã bị lãng quên trên trái đất, và Bồ tát Di Lặc sẽ là bậc giác ngộ Pháp và thuyết lại cho chúng sinh, tương tự như những vị Phật khác đã làm trong quá khứ.
Theo truyền thuyết và kinh điển Phật giáo, Di Lặc là vị Bồ tát sẽ xuất hiện trên Trái Đất, đạt được giác ngộ hoàn toàn, giảng dạy Phật Pháp, giáo hóa chúng sinh, và chứng ngộ thành Phật.
Theo Đại Nhật Kinh Sớ, Từ Thị nghĩa là chủng tính từ bi, gồm hai chữ: Từ trong Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) của Phật, Thị là chủng, họ, tộc, do lòng Từ đó sanh ra từ chủng tính Như Lai, có năng lực làm cho tất cả thế gian không đoạn dứt Phật chủng. Còn theo phẩm Tùy Hỷ trong Kinh Pháp Hoa và Kinh Bình Đẳng Giác, Di Lặc chính là A Dật Đa. Ngài là một vị đệ tử của Phật Thích Ca. Nhưng theo Kinh Thuyết Bản trong Trung A hàm 13, Kinh Xuất Diệu 6 và Luận Đại Tỳ-bà-sa 178, Di Lặc và A Dật Đa là hai nhân vật khác nhau. Trong bài kệ tựa phẩm Bỉ Ngạn Đạo (Pàràyana) của Kinh Tập (Sutta - nipàta) thuộc Đại Tạng Kinh Pàli đều nêu cả hai tên A Dật Đa (Ajita) và Đế Tu Di Lặc (Tissametteyya), tức hoàn toàn cho đó là hai người khác nhau.
Từ Thị được đề cập sớm nhất ở Cakavatti (Sihanada) Sutta, Digha Nikaya 26 trong Kinh tạng Pali. Trong tranh hay tượng ở Ấn Độ, Di Lặc ngồi trên mặt đất, biểu tượng sẵn sàng đứng dậy đi giáo hóa chúng sinh. Ở những hình ảnh ban đầu, Di Lặc được mô tả như một vị hoàng tử thanh mảnh, tuấn tú, thường mặc trang phục hoàng gia Ấn Độ. Tại Trung Quốc, Bồ tát Di Lặc thì được trình bày với tướng mập tròn vui vẻ, trẻ con quấn quýt xung quanh. Người ta tin rằng đó chính là hình ảnh của Bố Đại Hòa thượng, một hóa thân của Di Lặc ở thế kỷ thứ X. Có thuyết cho rằng, chính Bồ tát Di Lặc là người khởi xướng hệ phái Duy thức của Đại thừa. Một số học giả cho rằng, vị này chính là Maitreyanatha (sa.maitreyanâtha), thầy truyền giáo lý Duy thức cho Vô Trước (sa.asaga). Truyền thống Phật giáo Tây Tạng cho rằng, Ngài là tác giả của năm bài luận, được gọi là Di Lặc (Từ Thị) ngũ luận: 1. Đại thừa tối thượng luận hoặc Cứu cánh nhất thừa bảo tính luận (sa.mahâyânottaratantra). 2. Pháp pháp tính phân biệt luận (sa.dharmadharmatâvibanga). 3. Trung biên phân biệt luận (sa.madhyântavibhâga-úâstra). 4. Hiện quán trang nghiêm luận (sa.abhisamayâlankâra). 5. Đại thừa kinh trang nghiêm luận (sa.mahâyânasutralankâra). Nói về tương lai của Phật Di Lặc thì trong Kinh Di Lặc Hạ Sinh chép rằng: "Hiện nay đức Di Lặc là một trong bốn vị Bổn Xứ Bồ Tát đang ở nội viên cung trời Đâu Suất, đợi đến khi thế giới này hết kiếp giảm thứ chín, đến kiếp tăng thứ mười, lúc ấy Ngài sẽ hóa thân xuống cõi trần này trong nhà của một vị Bà La Môn tên là Tu Phạm Na. Thân mẫu của Ngài tên là Phạm Na Bạt đề. Khi sinh ra Ngài có nhiều tướng tốt, đức hạnh vẹn toàn, thông minh quán chúng, lớn lên Ngài xuất gia tu hành, đến núi Kê Túc để nhận lãnh Y Bát của đức Phật Thánh Ca, do Tổ Ma Ha Ca Diếp trao lại. Rồi Ngài đến ngồi dưới gốc cây Long Hoa dùng Kim Cang trí trừ sạch vô minh, chứng đắc Vô Thượng Bồ đề. Ngài bắt đầu thuyết pháp tại Giảng đường Hoa Lâm dưới cây Long Hoa. Hội thứ nhất độ được 96 ức người thành A la Hán. Hội thứ hai độ được 94 ức người thành A La Hán, Hội thứ ba độ 92 ức người thành A La Hán. Do vậy mà gọi là "Long Hoa Tam Hội". Ngài thuyết pháp đến sáu vạn năm, hóa độ vô số chúng sinh tu hành thoát khổ ". Tượng Phật Quan Âm và những điều Phật tử nên biết Một trong những hóa thân của Ngài mà chúng ta thường nghe nhất là Bố Đại Hòa Thượng trong Phật Giáo Trung Hoa, đó là một vị Hòa thượng ở đất Minh Châu, huyện Phụng Hóa (Trung Hoa), Ngài thường mang cái đãy bằng vải đi khắp chợ búa xóm làng, ai cho gì cũng bỏ hết vào đãy mang đi. Ngài thường giảng kinh cho người nghèo, làm nhiều điều mầu nhiệm, lạ thường. Trong thiên hạ không ai hiểu được Ngài là người như thế nào, chỉ cùng nhau gọi là vị Bố Đại Hòa thượng (vị Hòa thượng mang túi vãi lớn), đến đời Lương, niên hiệu Trình Minh năm thứ ba, Ngài nhóm chúng lại tại chùa Nhạc Lâm, Ngài ngồi ngay thẳng nói bài kệ:
"Di Lặc Chơn Di Lặc,
Hóa thân thiên bách ức,
Thời thời thị thời nhơn,
Thời nhơn giai bất thức ".
Có nghĩa là:
"Di Lặc thật Di Lặc,
Biến trăm ngàn ức thân,
Thường hiện trong cõi đời,
Người đời chẳng ai biết ".
Nói xong bài kệ, ngài an nhiên thị tịch.
Ý nghĩa hình tượng Phật Di Lặc Trong Phật giáo, nụ cười của Đức Thích Ca được gọi là nụ cười an lạc, nụ cười của Đức Phật Di Lặc là nụ cười hoan hỷ. Nếu trong cuộc sống chúng ta luôn trao đổi với nhau bằnng nụ cười vô nhiễm thì đời sống này sẽ an lạc biết bao. Tướng mạo tượng Phật Di Lặc ngày nay được miêu tả với hình ảnh cơ thể khỏe mạnh, mập mạp, áo mặc hở bụng căng tròn phô cả rốn, đi chân đất. Tính tình Phật Di Lặc cũng được miêu tả kì lạ không kém so với thân hình, nói năng vô định, thích ngủ ở đâu thì ngủ. Điểm đặc biệt nhất mỗi khi nhìn vào tượng Phật Di Lặc đó chính là nụ cười hoan hỉ bất diệt, là tấm lòng bao dung độ lượng không bờ bến. Tướng nụ cười của Phật cho người nhìn cảm giác vô lượng từ tâm, thanh thản nhẹ nhàng. Tướng lỗ tai dài biểu thị sự từ ái, lỗ tai biết lắng nghe ai khen cũng cười, ai chê cũng cười chằng phật lòng ai. Tướng bụng tròn thể hiện lòng từ bi rộng lớn sẽ chứa hết mọi chuyện buồn thế gian.
Chúng ta học theo gương Đức Di Lặc, xả tất cả cái chấp ngã, chấp pháp. Ngã pháp đã xả thì lục tặc có phá phách đến đâu cũng không làm não loạn tâm ta. Ta đã thắng được chúng và hàng phục chúng trở thành quyến thuộc công đức. Lúc chúng ta giác ngộ, sáu cơ quan ấy trở thành sáu thứ thần thông (thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, thần túc thông, tha tâm thông, túc mạng thông, lậu tận thông). Biết như vậy chúng ta tập sống hỷ xả không cố chấp. Tất cả đều hỷ xả thì lòng chúng ta nhẹ nhàng như quả bóng bay vào hư không, trí tuệ vô nhiễm phát sanh, tâm luôn an lạc vui vẻ hồn nhiên như tâm một đồng tử chưa vướng bụi trần. Được thế, còn gì làm ta đau khổ, như trời cao biển sâu, không còn bực bội, đắm mê, tâm linh được rỗng rang tỏ ngộ mặc tình thuyền bè xuôi ngược không lưu lại dấu vết! Thờ tượng đức Di Lặc hay lễ bái ngài, chúng ta phải nhớ hạnh hỷ xả là pháp tu chánh yếu để giải thoát mọi khổ đau. Có hạnh hỷ xả là có giải thoát, có an vui. Hỷ xả là thần dược trị lành mọi bệnh chấp trước của chúng sanh. Nụ cười của đức Di Lặc là nụ cười muôn thuở, không bao giờ biến đổi.
THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Theo sách sử ghi lại, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc giáo chủ cõi Ta Bà. Ngài từng sống trên trái đất này và đã sáng lập ra Phật Giáo. Thế nhưng, nhiều Phật tử lại chưa biết rõ về lịch sử Phật Thích Ca Mâu Ni cũng như không hiểu tại sao Ngài lại có nhiều tên gọi như vậy. Nhiều người còn nhầm lẫn với các vị Phật khác trong Phật giáo.
Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (sau này là Đức Phật) ra đời tại vườn Lâm-Tỳ-Ny ở thủ đô Ca-Tỳ-La-Vệ của một vương quốc nhỏ ngay dưới chân rặng núi Hy Mã Lạp Sơn của Ấn Độ cổ xưa. Ngày sinh của Phật Thích Ca Mâu Ni là ngày 8 tháng 4 Âm Lịch năm 624 TCN. Về sau, đại hội Phật Giáo Thế Giới đổi và tổ chức ngày Đại Lễ Phật Đản vào ngày trăng tròn 15-4 Âm Lịch. Cha của Ngài là vua của bộ tộc Thích Ca (Skakya). Mười hai năm trước khi ra đời, các tu sĩ Ấn Giáo đã tiên tri rằng Ngài sẽ là một vị vua vĩ đại hoặc sẽ trở thành một nhà hiền triết lừng danh của thế giới loài người. Vì không muốn Phật Thich Ca trở thành tu sĩ, cha của Ngài đã giữ Ngài bên trong cung điện. Thái tử Tất Đạt Đa lớn lên trong sự xa hoa của một bậc vua chúa, không được phép nhìn thấy thế giới bên ngoài, được các vũ nữ giúp vui, và được các tu sĩ Bà La Môn dạy học.
Thái tử còn học cưỡi ngựa, bắn cung, đánh kiếm, đánh vật, bơi lội… Khi đến tuổi trưởng thành, Thái tử thành hôn với công chúa Gia Du Đà La và có một con trai. Ngày nay chúng ta có thể nói là Ngài là người có tất cả mọi thứ trên đời, nhưng Ngài cảm thấy mình thiếu một cái gì đó, và chính điều đó đã lôi kéo Ngài ra khỏi những bức tường của cung điện. Ở ngoài đó, trên những đường phố của kinh thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài đã trông thấy ba cảnh tượng thông thường nhất đối với mọi người khác: một người bị bệnh, một người già yếu, và một xác chết đang được người ta đưa đi hỏa thiêu. Ngài chưa bao giờ được sửa soạn để chứng kiến những cảnh bi thảm như thế này, cho đến khi người đánh xe nói với Ngài rằng tất cả mọi người đều phải chịu sự già yếu, bệnh tật và chết chóc. Ngài cảm thấy mình không thể nào an tâm sống trong sự xa hoa như trước nữa. Trên đường trở về cung điện, Ngài trông thấy một tu sĩ đang bước đi một cách thong dong trên đường phố, và Ngài đã quyết định rời khỏi cung điện để đi tìm giải pháp cho vấn đề đau khổ của cuộc đời. Trong đêm khuya Ngài lặng lẽ từ giã vợ con mà không đánh thức họ, rồi phi ngựa đến một khu rừng, nơi đó Ngài đã dùng gươm cắt tóc và thay bộ trang phục vua chúa bằng một chiếc áo tu sĩ đơn sơ. Đó là năm Ngài 29 tuổi, (595 BC). Với hành vi này Thái tử Tất Đạt Đa đã gia nhập vào hạng người từ bỏ xã hội Ấn Độ để tìm giải thoát.
Thái tử đã tìm đến học hỏi với nhiều vị thầy khác nhau, từ những vị theo chủ nghĩa duy vật, cho đến những người theo chủ nghĩa lý tưởng và phái ngụy biện. Từ rừng núi đến thị thành, đâu đâu cũng sôi nổi với những cuộc tranh luận và triết lý. Sau cùng Thái tử đã theo học hai vị Thầy nổi tiếng, vị thứ nhất là Đạo Sư Alara-Kalama, thuộc phái Samkhya (phái Số luận), đang có ba trăm đệ tử theo tu học. Với vị này, Thái tử đã học và đắc ngũ thần thông, đạt đến bậc thiền Vô Sở Hữu Xứ. Nhưng sau đó dù Đạo Sư Arada Kalama mời Ngài ở lại để dạy đạo như một người đồng đẳng với ông, nhưng Ngài thấy đây không phải là pháp giải thoát tối hậu, nên Ngài đã ra đi. Ngài đến học với vị thầy thứ hai là Đạo Sư Uddaka Ramaputta (Uất-đầu-lam-phất), người đang có 700 đệ tử theo học. Sau vài ngày tu học, Ngài đã chứng được tầng thiền Phi tưởng phi tưởng.
Nhưng đây không phải là con đường giải thoát sinh tử khổ đau, và Tất Đạt Đa cũng đã quyết định từ giả vị thầy này. Trong sáu năm, Thái tử Tất Đạt Đa cùng với năm người bạn Kiều Trần Như cùng tu khổ hạnh và thiền định, chỉ ăn một hạt cơm mỗi ngày, lấy tâm trí thi đua với thể xác, và chỉ còn da bọc xương. Khi Ngài quyết định dùng nhiều thực phẩm hơn và không áp dụng pháp tu khổ hạnh nữa, năm người bạn kia đã từ bỏ Ngài. Ngài đến một ngôi làng để khất thực, ở đó một cô gái tên là Sujata mời Ngài dùng một bát cháo sữa với mật ong.
Khi sức khỏe phục hồi, Ngài xuống tắm dưới sông Nairanjana (Ni Liên Thiền) rồi ngồi thiền dưới cội Bồ Đề, trên một tấm tọa cụ làm bằng cỏ kusha. Ngài ngồi đó sau khi đã nghe tất cả các vị thầy, học tất cả những kinh sách và thực hành tất cả pháp môn, bây giờ không có gì vướng bận, không có ai để nương tựa, không có nơi nào để đi nữa. Ngài thiền tọa bất động và cương quyết như một quả núi, cho đến bảy ngày sau, Ngài mở mắt ra, trông thấy sao mai vừa mọc trên bầu trời và Ngài hiểu ra rằng mình đã tìm ra cái chưa bao giờ mất, dù là đối với Ngài hay bất cứ một người nào khác trên thế gian này.
Vì vậy không có gì để chứng đắc, không có gì để tìm kiếm nữa.
Ngài nói: “Điều kỳ diệu nhất là sự giác ngộ này vốn là chân tánh của chúng sanh, nhưng họ lại không an lạc vì thiếu nó”. Vậy Thái Tử Tất Đạt Đa đã giác ngộ vào năm ba mươi lăm tuổi (589 BC) và trở thành một vị Phật, tức đấng giác ngộ, được tôn vinh là Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), tức là nhà hiền triết thuộc bộ tộc Thích Ca. Trong bảy tuần lễ sau đó, Đức Phật thọ hưởng pháp lạc tự tại giải thoát của chính mình.
Lúc đầu Ngài không có ý định nói về sự chứng ngộ của mình, vì Ngài thấy đây là điều khó hiểu đối với phần lớn loài người, nhưng khi Phạm Thiên (Brahma), vị vua của ba ngàn thế giới, thỉnh cầu Ngài thuyết pháp, vì cũng có những người: “mắt chỉ bị mờ một chút mà thôi”. Đức Thế Tôn đã chấp thuận. Hai vị thầy của Đức Phật, Udaka và Ramaputra đều đã qua đời trước đó mấy ngày, vì vậy Ngài đi tìm năm người bạn đồng tu khổ hạnh mà trước kia đã rời bỏ mình. Khi thấy Ngài đi tới Vườn Nai ở thành Ba La Nại (Benares), họ làm lơ với Ngài, vì Ngài đã không tiếp tục thực hành khổ hạnh với họ. Nhưng rồi họ thấy có một cái gì tỏa sáng trong sự hiện diện của Ngài, họ đứng lên, sửa soạn chỗ ngồi và lấy nước cho Ngài rửa chân, rồi ngồi xuống nghe Ngài thuyết pháp. Đó là bài pháp đầu tiên của Đức Phật. Đức Phật đã nói bài pháp Tứ Diệu Đế cho các vị này. Trong Tứ Diệu Đế của Đức Phật, chân lý thứ nhất, Khổ đế, nói rằng bản chất của cuộc đời này là đau khổ và không thỏa mãn, ngay cả những lúc hạnh phúc cũng có mầm móng của khổ đau nếu chúng ta bám giữ vào chúng, hay khi chúng đã đi vào ký ức, chúng vẫn bóp méo hiện tại vì tâm trí của chúng ta cố gắng dựng lại quá khứ một cách tuyệt vọng.
Giáo lý của Đức Phật dựa trên sự quan sát trực tiếp đời sống, và là lời phê bình cấp tiến đối với lối suy nghĩ mơ mộng cũng như vô số những lối thoát ly, như chủ nghĩa không tưởng chính trị, môn tâm lý trị liệu, chủ nghĩa hưởng lạc, hay thuyết cứu rỗi hữu thần của thần bí học, đây là điểm chính yếu phân biệt giữa Phật giáo với đa số những tôn giáo khác trên thế giới.
Khổ là chân lý thứ nhất và là nền móng để hiểu một cách trọn vẹn chứ không phải để trốn tránh hay để giải thích. Kinh nghiêm về sự khổ, về sự hoạt động của tâm trí, đưa đến chân lý thứ hai là nguyên nhân của Khổ (Tập Đế), thường được mô tả là tham muốn lạc thú, nhưng cũng được giải thích một cách căn bản hơn là bám giữ vào sự sống hoặc sự không hiện hữu, tức chấp có và chấp không. Việc nghiên cứu tính chất của sự tham muốn này dẫn đến tâm điểm của chân lý thứ hai, đó là ý tưởng tự ngã hay cái ta, với tất cả những điều mong cầu và những điều lo sợ của nó, và chỉ khi nào hiểu đúng về tự ngã này và thấy nó không có tự tính, không có thật một cách vĩnh cữu), thì mới có thể hiểu chân lý thứ ba, sự diệt khổ (Diệt Đế). Năm tu sĩ nghe bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật ở Vườn Nai trở thành hạt nhân của cộng đồng các tu sĩ Phật giáo, tức là Tăng đoàn (Sangha), là những người đi theo con đường mà Đức Phật đã trình bày trong chân lý thứ tư, con đường đưa đến sự diệt khổ (Đạo Đế), đó là Bát Chánh Đạo, chân chánh trong tám phương diện: ý kiến, ý nghĩ, lời nói, hành vi, nghề nghiệp, nỗ lực, ý thức và thiền định. Các tu sĩ Phật giáo, tức Tỳ kheo (Bikkhu), sống rất đơn giản, chỉ có một bình bát, một cái áo, một cây kim, một cái lọc nước, một con dao cạo đầu, đó là dấu hiệu của sự ly gia cắt ái. Họ đi khắp miền đông bắc Ấn Độ, hành thiền một mình hay trong những nhóm nhỏ và khất thực. Tuy nhiên giáo lý của Đức Phật không chỉ dành cho đoàn thể các tu sĩ, Ngài đã dạy họ truyền bá giáo lý cho mọi người “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường, đi khắp nơi vì lợi lạc, vì hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của trời và người”. Trong bốn mươi lăm năm, Đức Phật đã đi qua những thôn làng và những thành phố của Ấn Độ, nói bằng ngôn ngữ phổ thông, dùng những lối nói giản dị mà ai cũng có thể hiểu.
Ngài dạy dân làng thực hành chánh niệm trong khi kéo nước giếng, và khi một bà mẹ đau khổ ôm xác một đứa con đến xin Ngài cứu cho nó sống lại, Ngài đã không làm một phép lạ mà bảo bà ta mang về cho Ngài một nắm hạt cải của một nhà nào đó không có ai chết trước đó. Sau khi đi tìm, bà ta trở về tay không, nhưng hiểu ra một sự thật rằng cái chết đến với tất cả mọi người. Khi được nghe nói đến Đức Phật, từ phú gia đến các bậc vua chúa đều phát tâm cúng dường những khu vườn ngự uyển để xây dựng tinh xá. Đức Phật tiếp nhận những khu vườn này, nhưng Ngài vẫn tiếp tục sống như mình đã từng sống từ năm hai mươi chín tuổi: một tu sĩ khất thực và thiền định dưới gốc cây.
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Các vị Bồ Tát là những bậc được kết tinh bởi đức hạnh cao quý tuyệt vời của đức Phật và được thánh hóa để trở thành nhu cầu của quần chúng. Nếu như con người ở một thời đại nào đó khao khát tri thức, trí tuệ thì tính chất trí tuệ được thánh hóa và đặt lên hàng đầu với hình tượng biểu trưng là Bồ Tát Văn Thù. Ngược lại, khi nhân loại đang cần tình thương và sự che chở bảo hộ, cần một bàn tay hiền từ, tươi mát tưới tẩm, cảm thông và xoa dịu nỗi đau thương tang tóc trong cuộc sống thì hình ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát lại được thánh hóa để làm chỗ nương tựa cho tâm hồn.
hai vị Bồ tát kể trên cũng là biểu tượng đặc trưng cho chất liệu “từ bi và trí tuệ”, một triết lý trác tuyệt tiềm ẩn xuyên suốt toàn bộ hệ thống kinh điển của Phật giáo. Đặc biệt, hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm, biểu tượng của tình thương bao la vô bờ bến, là đấng mẹ hiền trên tất cả mẹ hiền, trên tất cả thánh nhân được tôn xưng là mẹ hiền, Ngài luôn được người đời kính ngưỡng bởi hạnh nguyện từ bi, ban vui và cứu khổ không mệt mỏi, không giới hạn và luôn được đức Phật nhắc đến trong các kinh điển Đại Thừa.
Quán Thế Âm, tiếng Phạn gọi là Avalokitévara, Nghĩa là vị Bồ Tát quán sát âm thanh đau khổ của thế gian kêu cầu mà cứu độ một cách tự tại. Do Ngài quán sát âm thanh một cách tự tại mà chứng được bản thể chân thường của vũ trụ. Nơi nào, lúc nào trong vũ trụ có tiếng chúng sinh đau khổ, kêu cầu thì Ngài hiện thân cứu độ rất tự tại, cho nên Ngài cũng có tên là Quán Tự Tại, Quán Thế Tự Tại…
Bồ Tát, nói cho đủ là Bồ đề Tát Đỏa, tiếng Phạn là Bodhisattva, nghĩa là giác hữu tình hay hữu tình đã giác ngộ, trở lại giác ngộ hữu tình khác. Ví như có nhiều người đang ngủ mê, có một người tỉnh thức, người ấy đánh thức những người còn lại đang ngủ mê. Người tỉnh thức đó gọi là bậc giác ngộ như chư Phật, Bồ Tát, kẻ ngủ mê là chúng sinh. Bồ Tát Quán Thế Âm được ví như Người đánh thức những người đang ngủ mê trong ngôi nhà đó. Vì Ngài đã giác ngộ, biết rõ chân lý của vũ trụ, chứng được phép “nhĩ căn viên thông”, nghe thông suốt hết thảy âm thanh của vũ trụ, như người đã thức dậy rồi trong ngôi nhà “vũ trụ” kia, nghe biết hết thảy chân tướng các sự vật, động tịnh trong ngoài. Cho nên chúng sinh nào xưng niệm danh hiệu Ngài liền được Ngài “tầm thanh cứu khổ”, giải thoát khỏi tai ách, hoạn nạn. Ngài đã chứng được bản thể của âm thanh vốn dĩ là không, vô thường, vô ngã nên Ngài thường được tôn xưng là Quán Thế Âm.
kinh Bi Hoa nói rất rõ về cuộc đời tu tập của vị Bồ Tát này như sau: “Về thuở quá khứ lâu xa về trước, Đức Quán Thế Âm là một vị thái tử tên là Bất Huyền, con của vua Vô Tránh Niệm, thời ấy có Đức Phật ra đời tên là Bảo Tạng Như Lai. Vua Vô Tránh Niệm hết lòng sùng bái đạo Phật. Vua liền sắm đủ lễ vật quý báu dâng cúng Phật và chư Tăng trong ba tháng hạ, vua cũng khuyến khích các quan văn, vương tử, vương tôn, triều đình quyến thuộc theo vua cúng dường. Thái tử Bất Huyền vâng lệnh vua cha, cũng dâng cúng đủ các trân cam mỹ vị, hết lòng thành kính Đức Phật và chúng Tăng trong ba tháng như vậy.
Lúc ấy, có vị đại thần tên là Bảo Hải, tức là thân phụ của Phật Bảo Tạng, khuyên thái tử Bất Huyền nên lập nguyện nhờ công đức cúng dường này mà cầu quả báu Vô thượng Bồ đề, không nên cầu quả ở cõi trời, cõi người này, vì quả báu phước cõi ấy là phước báu hữu hạn, dù chúng ta có lên trời rồi, đến khi hết phước cũng phải sa đọa. Sao bằng đem công đức cúng dường này hướng về quả báu vô thượng bồ đề mới là phước báu chân thật vĩnh hằng.
Nghe đại thần khuyên như vậy, Thái tử liền đến trước Phật Bảo Tạng phát đại thệ nguyện: “nguyện xin nhờ công đức cúng dường này cầu quả vô thượng bồ đề. Con nguyện xin trong lúc tu đạo tự lợi, lợi tha, nếu có chúng sinh nào lâm vào tai nạn, không thể tự cứu chữa được, không nơi nương nhờ, hễ niệm đến danh hệu con, con liền đủ sức thần thông đến cứu độ ngay. Nếu lời nguyện ấy không thành, con thề không chứng quả Bồ đề. Con xin phát đại thệ nguyện tu đạo Bồ Tát cho đến cùng tận đời vị lai, trãi qua vô số kiếp, khi phụ vương con (vua Vô Tránh Niệm) thành Phật hiệu A Di Đà ở thế giới Cực Lạc thì con sẽ làm thị giả hầu hạ Ngài cho đến khi Chánh Pháp Ngài tận diệt con mới chứng quả Bồ đề. Con nguyện xin Đức Thế Tôn và mười phương chư Phật thụ ký cho con như vậy”.
Đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho thái tử và nói rằng: “Do quán sát chúng sinh trong vô số thế giới đều vì tội nghiệp mà phải chịu quả báu đau khổ nên ngươi phát bi tâm, ngươi lại nguyện quan sát nghe được tiêng kêu cầu đau khổ của thế gian để đến cứu độ. Nay ta thọ ký cho ngươi hiệu là Quán Thế Âm. Ngươi sẽ giáo hoá cho vô lượng chúng sinh thoát khỏi khổ não, trong khi tu đạo, ngươi phải làm mọi Phật sự để lợi ích chúng sinh”.
Do đó, sau khi Phật A Di Đà nhập diệt rồi, cõi Cực Lạc sẽ đổi tên là Nhất Thế Trân Bảo Sở Thành Tựu, càng thêm tốt đẹp hơn trước nữa. Khi ấy, đang lúc ban đêm, trong khoảnh khắc, tất cả mọi thứ trang nghiêm đều hiện ra giữa không trung, tức thì ngươi thành Phật hiệu là “Biến Xuất Nhất Thế Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, sống lâu đến chín mươi sáu ức na do tha kiếp. Sau khi ngươi diệt độ rồi, chánh pháp sẽ còn lưu truyền lại sáu mươi ba ức kiếp nữa”. Thái tử nghe Phật thọ ký rồi, lòng vô cùng hoan hỷ và bạch rằng: “như lời nguyện của con được hoàn toàn viên mãn thì đối với con còn hạnh phúc nào bằng. Nay con xin nguyện mười phương chư Phật cũng thọ ký cho con như thế, làm cho tất cả thế giới đều rung chuyển như tiếng âm nhạc, ai nghe cũng được giải thoát”. Thái tử bạch rồi, cúi đầu đảnh lễ Đức Phật.
Bấy giờ, các thế giới tự nhiên rung chuyển, phát ra tiếng hòa nhã như âm nhạc, ai nghe cũng thân tâm thanh tịnh, dục vọng không còn. Tiếp đó là các Đức Phật trong mười phương thế giới cũng đồng thanh thọ ký cho Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: “Trong thời kiếp Thiên Trú, ở thế giới Tân Đề Lam có đức Bảo Tạng Như Lai ra đời, thái tử Bất Huyền, con vua Vô Tránh Niệm phát tâm cúng Phật và chúng Tăng ba tháng. Nhờ công đức ấy, trãi qua vô số kiếp về sau, thái tử sẽ thành Phật hiệu là “Biến Xuất Nhất Thế Công Đức Sơn Vương Như Lai” ở thế giới Trân Bảo Sở Thành Tựu. Nghe chư Phật thọ ký xong, thái tử hoan hỷ vô cùng. Từ đó, trãi qua vô số kiếp về sau, Ngài tinh tấn tu đạo Bồ Tát, cứu độ tất cả chúng sinh, không bao giờ quên đại bi tâm của Ngài. Kinh Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng và kinh Đại Phương Quảng Như Lai nói rằng: Ngài cùng Bồ Tát Đại Thế Chí vì lòng từ bi, thệ nguyện dấn thân vào con đường phụng sự, đem lại hạnh phúc, an lạc cho chúng sinh, không chịu vào cảnh giới tối thuợng của chư Phật.
Kinh Pháp Hoa, một bộ kinh rất quen thuộc với Phật tử thuộc truyền thống Phật giáo Đại Thừa ghi rằng: Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hiện thành thân Phật, thân Bích Chi Phật, thân Đại Tự Tại thiên, thân tiểu vương, thân người nam, thân người nữ … cho đến thân dạ xoa, la sát, phi nhân .v.v… Kinh Ngũ Bách Danh còn đề cập đến 500 loại hóa thân của Ngài để tùy duyên ứng hiện hóa độ thuyết pháp. Tóm lại, Quán Thế Âm là vị Bồ Tát quan sát chúng sinh khổ đau trong thế gian mà khởi lòng đại bi, đoạn trừ phiền não, làm cho chúng sinh được an lạc. Ngài là hình ảnh của đại từ đại bi, của tình thương bao la, vì bi nguyện độ sinh, Ngài có thể hóa hiện từ trên thân Phật, dưới cho đến thân quỷ dạ xoa, la sát để hóa độ chúng sinh. Chính sự hóa thân đó đã làm cho hình ảnh của Ngài nói riêng, Phật giáo nói chung trở nên năng động và tích cực hơn trong việc cứu khổ độ sinh vậy.
VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cũng được gọi là Mạn Thù Thất lỵ, có nghĩa là Diệu Đức, Diệu Cát Tường. Diệu Đức được hiểu là mọi đức đều tròn đầy. Thủa xưa, Ngài là con thứ ba của vua Vô Trách Nhiệm có tên là Thái tử Vương Chúng. Ngài cúng dường Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sinh nên được hiệu là Văn Thù Sư Lợi. Sau khi Phật Bảo Tạng thọ ký cho Ngài phải trải vô lượng hằng hà sa số kiếp về sau, thì Ngài sẽ thành Phật ở thế giới thanh tịnh Vô Cấu Bảo Chi thuộc về bên phương Nam, hiệu là Phật Văn Thù. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi xuất hiện hầu như trong tất cả các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật…như là một nhân vật thân cận nhất của Đức Phật Thích Ca.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cũng được gọi là Mạn Thù Thất lỵ, có nghĩa là Diệu Đức, Diệu Cát Tường. Diệu Đức Ngài có lúc thì chính thức thay mặt Đức Thế Tôn diễn nói Chánh pháp, còn có lúc đóng vai người điều khiển chương trình để giới thiệu đến thính chúng một thời pháp quan trọng của Đức Bổn Sư. Ngài thấu hiểu Phật tính bao gồm cả ba đức: Pháp thân, Bát Nhã và Giải thoát cho nên trong hàng Bồ tát Ngài là thượng thủ. Là vị Bồ tát tiêu biểu cho trí tuệ, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen. Biểu tượng đặc thù của Ngài là trên tay phải, dương cao lên khỏi đầu, là một lưỡi gươm đang bốc lửa. Nó mang hàm ý rằng chính lưỡi gươm vàng trí tuệ nầy sẽ chặt đứt tất cả những xiềng xích trói buộc của vô minh phiền não đã cột chặt con người vào những khổ đau và bất hạnh của vòng sinh tử luân hồi bất tận và đưa con người đến trí tuệ viên mãn. Trong khi đó, tay trái của Ngài đang cầm giữ cuốn kinh Bát nhã trong tư thế như ôm ấp vào giữa trái tim. Đây là biểu trưng cho tỉnh thức, giác ngộ. Đôi khi, chúng ta cũng thấy tay trái của Ngài cầm hoa sen xanh, biểu thị cho đoạn đức. Có nghĩa là dùng trí tuệ để dứt sạch mọi nhiễm ô tham ái, như hoa sen ở trong bùn mà không nhiễm mùi bùn. Nói một cách khác là Bồ tát không phải người ẩn nơi non cao rừng thẩm, hoặc sống trong cảnh thanh tịnh u nhàn, mà là người sống chung đụng với quần chúng, lăn lộn trong đám bụi trần để cứu độ chúng sinh, nên có lúc họ ra làm vua, có lúc làm quan, cũng có khi làm kẻ tật nguyền nghèo khổ…Tuy sống trong dục lạc dẫy đầy, mà Bồ tát vẫn giữ tâm thanh tịnh không bị ô nhiễm như người đời. Đó là nhờ trí tuệ dứt sạch tham ái, viên thành đoạn đức. hiểu là mọi đức đều tròn đầy. Thủa xưa, Ngài là con thứ ba của vua Vô Trách Nhiệm có tên là Thái tử Vương Chúng. Ngài cúng dường Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sinh nên được hiệu là Văn Thù Sư Lợi. Sau khi Phật Bảo Tạng thọ ký cho Ngài phải trải vô lượng hằng hà sa số kiếp về sau, thì Ngài sẽ thành Phật ở thế giới thanh tịnh Vô Cấu Bảo Chi thuộc về bên phương Nam, hiệu là Phật Văn Thù. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi xuất hiện hầu như trong tất cả các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật…như là một nhân vật thân cận nhất của Đức Phật Thích Ca.
Chiếc giáp Ngài mang trên người gọi là giáp nhẫn nhục. Nhờ nó nên các mũi tên thị phi không xâm phạm vào thân. Nó có thể che chở cho Ngài vẹn toàn tâm từ bi do đó bọn giặc sân hận oán thù không thể nào lay chuyển được hạnh nguyện của Bồ tát. Bồ tát không bao giờ rời chiếc giáp nhẫn nhục bởi vì nếu thiếu nó thì họ không thể nào thực hiện được tâm Bồ đề. Nói về Phật giáo Á Châu, thì Ngũ Đài Sơn bên Trung Quốc được xem như là nơi trụ tích của Văn Thù Sư Lợi Bồ tát. Ngũ Đài Sơn thuộc địa phận tỉnh Sơn Tây và có năm ngọn núi quần lại với nhau là Đông đài, Tây đài, Nam đài, Bắc đài và Trung ương đài. Phong cảnh rất thanh tú với hồ nước lung linh, những dòng sông trong veo uốn khúc cộng thêm những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú như những bức tranh thủy mặc, nên từ lâu được coi là chốn bồng lai tiên cảnh, trú xứ của những vị Tiên theo truyền thuyết Trung Hoa. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát trụ lại ở núi Thanh Lương phía Đông Bắc và hiện đang thuyết pháp cho chư Bồ tát nghe. Mà núi Thanh Lương sau nầy được ám chỉ là núi Ngũ đài. Vì thế mà vào đời nhà Đường (736 sau T.L) có vị Thiền sư Đạo Nhất, một vị cao tăng, đã thực hiện một chuyến hành hương trên Ngũ đài sơn. Sư gặp một một lão tăng cưỡi trên mình một con voi trắng ở phía đối diện. Lão tăng nói ngày mai sẽ gặp được Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, nói xong thì lão tăng biến mất. Sư quá đổi vui mừng và suốt đêm nghĩ lại chùa Thanh Lương, trung tâm của núi Ngũ đài. Sáng hôm sau vào lúc tinh mơ, Sư đã thức dậy, một mình nhắm hướng Tây lên núi. Sư lại gặp vị cưỡi con voi trắng hôm qua và vị tăng khuyến khích sư tiếp tục đi lên núi.
Khi sư đi về hướng Tây Bắc, đi qua một cây cầu thì Sư thấy một dinh thự hùng vĩ trang nghiêm như một tu viện, tất cả đều bằng vàng. Sau đó Sư gặp lại vị lão tăng và không còn nghi ngờ gì nữa, Sư biết chắc vị lão tăng kia chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ tát hóa hiện. Sư mừng đến độ choáng váng phải một lúc sau Sư mới hoàn hồn tỉnh lại. Nhân cơ hội nầy Sư đã tham vấn về những khúc mắc trong Phật pháp và Bồ tát cũng ân cần hỏi han về tình trạng Phật pháp ở quê hương Sư. Từ giã Bồ tát bước đi chừng trăm bước, Sư ngoái đầu nhìn lại, tất cả đều biến mất. Sư Đạo Nhất đem tất cả những điều chứng kiến được tâu trình lên vua Đường Huyền Tôn. Nhà vua rất thu hút bởi chuyện nầy nên sai thiết lập ngôi Kim Cát Tự. Đây là ngôi chùa vĩ đại được kiến trúc theo mô hình mà Sư nhớ lại được hoàn tất vào cuối thế kỷ thứ 8. Một nhà sư khác người Nhật tên là Viên Nhân (Ennin) cũng đã hành hương đến Ngũ Đài Sơn vào năm 840 sau T. L. Ông đã lưu lại đây hơn hai tháng và đã ghi lại những điều chứng kiến được như sau:”Vào khoảng đầu hôm, chúng tôi, một nhóm tăng khoảng mười người đột nhiên trông thấy trên bầu trời hướng Đông của thung lũng xuất hiện một cây đèn thần. Ánh sáng ban đầu chỉ nhỏ cỡ chừng bằng một cái bình nhưng sau đó lớn dần lên bằng cả cái nhà. Chúng tôi quả thật rúng động trước cảnh tượng nầy, vội vã quỳ xuống đánh lễ và niệm lớn danh hiệu Bồ tát Văn Thù. Rồi thì một cây đèn khác lại hiện ra gần chúng tôi hơn.
Hai ngọn đèn này nhìn từ xa, cách nhau khoảng chừng 100 bộ, tỏa ánh sang rất rực rỡ cho đến khoảng nữa đêm thì tàn lụi dần và biến mất”. Trong cuốn hồi ký nầy, sư Viên Nhân cũng mô tả lại những kiến trúc, đền đài, những nơi thờ phượng ở trên Ngũ Đài Sơn, kể cả bức tượng Bồ tát Văn Thù rất nổi tiếng tại chùa Hoa Nghiêm. Đây là bức tượng Bồ tát cưỡi trên mình con sư tử lớn bằng cả một ngôi nhà năm gian. Con sư tử trông thật siêu nhiên, vĩ đại và sống động giống như là thật vậy. Khi nhìn, chúng ta có cảm tưởng như là nó đang đi và thở hơi khói ra ở miệng. Sư Viên Nhân viết thêm rằng:” Bức tượng nầy phải đúc đến lần thứ bảy mới hoàn thành bởi vì tất cả những lần trước, lần nào cũng bị bể cả. Cuối cùng nhà điêu khắc thành tâm khấn nguyện cùng Bồ tát Văn Thù xin Ngài hiện ra cho ông ta thấy hình ảnh trung thực nhất mà Bồ tát muốn miêu tả về mình. Sau khi cầu nguyện, nhà điêu khắc mở mắt ra và vô cùng kinh ngạc khi thấy Văn Thù Bồ Tát cỡi trên mình con sư tử màu vàng xuất hiện trước mắt. Một khoảnh khắc sau đó, Bồ tát bay lên đám mây ngũ sắc và mất hút dần vào khoảng không. Nhà điêu khắc vô cùng vui mừng và cảm kích khi được trông thấy hình ảnh thực sự của Bồ tát, nhưng đồng thời ông cũng không cầm được nước mắt vì hối hận khi đã diễn tả sai lầm về Bồ tát từ trước đến nay”. Con sư tử biểu thị công năng của trí tuệ. Bồ tát do trí tuệ viên mãn để thuyết pháp dẹp tan tất cả mọi tà thuyết.
Vai trò tuyên dương Diệu Pháp của Bồ tát Văn thù, chúng ta có thể tìm thấy trong kinh: “Văn Thù Sư Lợi nói về cảnh Giới Bất Tư Nghị của Phật”. Đây là một tuyên ngôn của lý tưởng Bố tát đạo được công bố bởi một vị đại Bồ tát đại biểu cho trí tuệ. Mục tiêu, lý tưởng của Bố tát đạo không phải chỉ là để vượt qua vòng sanh tử, đạt đến cảnh giới Niết bàn mà là hoàn thành Phật đạo để cứu độ chúng sinh. Đặc biệt vai trò tuyên dương diệu pháp của Ngài đã được phô trương quá xuất sắc trong kinh ”Duy Ma Cật”. Trưởng giả Duy Ma Cật là một cư sĩ tại gia nhưng tu hành chứng đắc, mật hạnh viên thông mà ngay cả những bậc đại đệ tử của Phật cũng không có vị nào sánh bằng. Vì muốn độ người nên Ngài thị hiện ở thành Tỳ Da Ly, dùng vô lượng của cải để nhiếp độ dân nghèo, giữ giới hạnh trong sạch để nhiếp độ kẻ phá giới, dùng hạnh nhẫn nhục để nhiếp độ kẻ giận dữ sân hận, dùng đại tinh tấn để nhiếp độ kẻ biếng nhác, nhất tâm thiền tịch để nhiếp độ.
Dù hiện thân bạch y mà giữ giới hạnh trong sạch của Sa Môn, dù ở tại gia mà không đắm nhiễm cõi đời, thị hiện có vợ con quyến thuộc mà thường tu thanh tịnh hạnh, dù mặc đồ quý báu mà dùng tướng tốt để trang nghiêm, dù ăn uống theo người đời mà lấy Thiền duyệt làm mùi vị, hoặc đến chỗ cờ bạc, xướng hát vẫn tùy cơ độ người. Tất cả người gặp đều cung kính cúng dường. Một hôm vì muốn tạo cơ duyên để hoằng pháp lợi sanh, ông đã mượn cớ bị bệnh để tạo dịp giảng giải giáo lý cho chúng sanh. Đức Phật đã biết rõ căn “bệnh” của ông nên đã lần lượt yêu cầu các vị đại đệ tử thay mặt mình đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật. Thế nhưng tất cả những đại đệ tử của Phật trong quá khứ đã từng bị trưởng giả Duy Ma cật chất vấn về tâm pháp và sở học mà không một ai trả lời trôi chảy trước kiến thức Phật pháp uyên thâm và biện tài vô ngại của ông nên tất cả đều sợ hãi từ chối. Vài thí dụ điển hình như: Một hôm A Nan cầm bát đến trước nhà Bà la môn để xin sữa cho Thế Tôn khi Ngài có bệnh. Khi ấy Duy Ma Cật đến hỏi ông rằng: - Này A Nan! Làm gì mà cầm bình bát đến đứng đây sớm thế? A Nan đáp: - Thưa Cư sĩ! Thế Tôn thân có chút bịnh, cần dùng sữa bò nên tôi mới đến đây. Cư sĩ Duy Ma cật nói: - Thôi, thôi! A Nan chớ nói như thế. Thân Như Lai là thân Kim cương, ác đã dứt sạch, thiện đã viên mãn, đâu còn bệnh nào, đâu còn khổ não. A Nan, hãy im lặng về đi. Chớ phỉ bang Như Lai, chớ cho người khác nghe biết lời nầy. A Nan, Chuyển Luân Thánh Vương chỉ có chút ít phước đức mà còn chẳng bịnh tật, huống chi là Như Lai vô lượng phước tu, thù thắng khắp nơi. A Nan, nếu ngoại đạo nghe được thì họ sẽ nghĩ rằng: Sao gọi Phật là Thầy cho được? bệnh của mình không chữa nỗi mà chữa được bệnh cho người khác ư? A Nan, nên biết, thân Như Lai tức là pháp thân, chẳng phải thân sắc dục. Phật là Thế tôn siêu việt ba cõi. Thân Phật là vô lậu, các lậu đã sạch, thân Phật vô vi, chẳng lọt vào số lượng. Thân Phật như thế thì còn có bệnh gì? A Nan đành im lặng ra về.
Một hôm khác Trưởng giả Duy Ma Cật gặp La Hầu La. Ông hỏi: - Thưa ông La Hầu La! Ông là con của Phật, vì đạo bỏ ngôi vua mà xuất gia, thế việc xuất gia đó có những lợi ích gì? La Hầu La trả lời: - Sự lợi ích của việc xuất gia đúng như pháp. Trưởng giả Duy Ma Cật nói thêm: - Này La hầu La! Ông chẳng nên nói lợi ích của công đức xuất gia. Tại vì sao? Vô lợi ích, vô công đức mới là xuất gia. Nếu đứng về pháp hữu vi, mới nói có lợi ích, có công đức. Còn việc xuất gia là pháp vô vi mà trong pháp vô vi chẳng có lợi ích và công đức. La hầu La! Việc xuất gia chẳng có bỉ thử đối đãi, lìa sáu mươi hai kiến chấp. Ở nơi Niết Bàn, là thọ dụng của người trí, là chỗ hành của bậc Thánh, hay hàng phục ma chúng, độ ngũ đạo, tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực, lập ngũ căn, chẳng làm phiền não người khác, lìa mọi thứ ác, dẹp các ngoại đạo, siêu việt giả danh, ra khỏi bùn lầy thế gian, chẳng bị dính mắc, vô ngã và ngã sở, vô sở lãnh thọ, tâm chẳng nhiễu loạn, ham hộ niệm chúng sinh, tùy thuận Thiền định, lìa những tội lỗi. Nếu được như thế mới là chơn xuất gia. Cuối cùng chỉ có Văn Thù Sư Lợi thay mặt Đức Phật đến thăm bịnh của Trưởng giả Duy Ma Cật mà thôi. Cùng đi với Bồ tát Văn Thù còn có 8000 Bồ tát, 500 Thanh văn và trăm nghìn Thiên nhơn để xem một cuộc tranh luận về giáo pháp của hai nhân vật kiệt xuất nầy.
Duy Ma Cật hỏi: Thế nào là hạt giống Như Lai? Văn Thù Sư Lợi trả lời: - Có thân là hạt giống Như Lai, vô minh, ái dục là giống, tham sân si là giống, tứ điên đảo là giống, lục nhập là giống, thất thức xứ là giống, bát tà pháp là giống, cửu não là giống, thập bát thiện đạo là giống. Nói tóm lại, sáu mươi hai kiến chấp và tất cả phiền não đều là hạt giống Phật. Duy Ma Cật hỏi: Tại sao? Văn Thù đáp: - Nếu kẻ thấy vô vi vào chánh vị thì không thể phát tâm Vô thượng Bồ đề nữa. Ví như chỗ gò cao thì không thể sanh hoa sen, mà nơi bùn lầy ẩm thấp hoa sen mới sanh được. Cũng thế, kẻ thấy pháp vô vi vào chánh vị thì chẳng còn có thể sanh khởi Phật pháp, trong bùn lầy phiền não mới có chúng sinh sanh khởi Phật pháp thôi. Nên biết tất cả phiền não là hạt giống Như Lai, ví như chẳng xuống biển cả thì chẳng được bữu châu vô giá. Cũng thế, chẳng vào biển phiền não thì chẳng thể nào được ngọc báu Nhất Thiết Trí vậy. Chủ điểm nền tảng của kinh Duy Ma Cật là triển khai nhận thức về thực tại trên căn bản của nguyên lý bất nhị, tức hệ tư tưởng tánh Không của Bát nhã. Nguyên lý bất nhị hướng dẫn nhận thức khởi đi từ những thực tại sai biệt mà khám phá ra thực tại tối hậu là nhận thấy bản thể chân thật (tuyệt đối) ngay trong các thực tại sai biệt ấy. Để nhận thức được thực tại chân thật nầy, Bồ tát cần đi qua cánh cửa bất nhị, tức là cánh cửa giao thông cho Bồ tát qua lại giữa Niết bàn và sanh tử. Bây giờ, Duy Ma Cật bảo các Bồ tát rằng: Này nhơn giả Bồ tát! Làm sao nhập pháp môn bất nhị? Hãy tùy sở ngộ của mình mà nói ra.
Tất cả 32 vị Bồ tát lần lượt trả lời về câu hỏi nầy, nhưng cư sĩ Duy Ma Cật đều không hài lòng về các câu trả lời đó. Cuối cùng tới ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: - Theo ý tôi, nơi tất cả vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, lìa nơi vấn đáp. Ấy là nhập pháp môn vô nhị. Khi đó Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng: - Chúng tôi mỗi mỗi đã tự nói xong. Nay đến lượt Nhơn giả nói:”Thế nào là nhập pháp môn bất nhị của Bồ tát?” Duy Ma Cật im lặng. Văn Thù tán thán rằng: - Lành thay! Lành thay! Cho đến chẳng có văn tự, lời nói mới là chơn nhập pháp môn bất nhị. Bất nhị là cảnh giới của “đại trí tuệ bình đẳng”, có nghĩa là 2 cũng không và 3 cũng không. Nếu nói tới pháp môn bất nhị nầy thì phải lìa xa hẳn ngôn thuyết ở cảnh giới vong ngôn, tuyệt tự. Không thể đem hết thảy ngôn thuyết của tất cả các pháp mà hiểu rỏ được, cũng không thể chỉ bảo được và cũng không thể biết được. Không thể hỏi và trả lời được, thì đó mới là “pháp môn bất nhị”. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đồng thời cũng còn quan hệ mật thiết với ngọn núi Ghandhamana, “ngọn núi tỏa thơm mùi hương báu”. Trong bộ kinh “Văn Thù Sư Lợi Nhập Diệt”, Ngài được mô tả là đã từng đến viếng dãy Hy Mã Lạp Sơn để chuyển hóa 500 vị đại tiên cư trú tại đây trở về với Phật giáo. Và sau đó, kinh nầy cũng mô tả cảnh Ngài nhập diệt, khi dùng lửa tam muội tự thiêu đốt xác thân của mình. Xá lợi của Ngài được đưa về đỉnh núi Hương Sơn, nơi mà vô số lượng các Thiên, Long, quỷ, thần sẽ tu tập đến để làm lễ tôn kính Ngài. Núi Hương Sơn này đã được nhà học giả Pháp Lamotte xác định là Gandhamana.
Chúng ta thờ phượng Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là để hướng về trí tuệ sẵn có của chúng ta. Vô minh, ái dục đã đưa chúng ta lặn hụp trong vòng sinh tử luân hồi, chịu chập chồng muôn nỗi khổ đau. Chúng ta hãy thức tỉnh để quay về với trí tuệ sẵn có của mình và dùng thanh gươm trí tuệ chặt đứt lưới tham ái để vượt ra khỏi bể khổ thâm sâu. Vâng, chỉ có trí tuệ mới có đủ công năng cứu chúng ta ra khỏi vòng luân hồi nghiệp báo. Thêm nữa, Bồ tát là tấm gương sáng cho lợi tha, chúng ta phải dùng lưỡi kiếm trí tuệ nầy để cứu thoát mọi người trước kẻ thù phiền não, của con rắn độc tham sân si. Có thực hành được như vậy, mới xứng đáng đánh lễ đức Văn Thù Sư Lợi tay cầm kiếm, mình mặc giáp, ngồi trên lưng sư tử. Công đức ở trong tự tánh chẳng phải bố thí, cúng dường mà được. Cho nên nói phước chẳng bằng công đức, bố thí chẳng kịp trì kinh là vậy.
Nhận xét :
Đăng nhận xét